Giảm thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng từ 30/12: Lúa mì 0%, thép cao nhất 15%
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2021/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu, mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số nhóm mặt hàng.
Theo đó, thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng như: thép, lúa mì, ngô,… sẽ được điều chỉnh giảm. Đây là những nhóm mặt hàng có giá cả tăng cao trong giai đoạn vừa qua, tác động đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất trong nước.
Cụ thể, chỉ số giá lương thực-thực phẩm toàn cầu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) tăng hơn 30%, cao nhất trong khoảng 10 năm qua. Theo FAO, giá lương thực thực phẩm thế giới thời gian qua leo thang do nguồn cung bị thắt chặt và nhu cầu bật tăng mạnh mẽ khi nền kinh tế phục hồi với các mặt hàng chủ lực.
Tại Việt Nam, trong sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp, giá nguyên liệu thông thường chiếm khoảng 80-85% so với giá thành sản xuất, nhưng lại chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, lên đến 70-80% nhất là các mặt hàng ngô, lúa mì, đỗ tương.
Vì vậy, để hỗ trợ cho ngành chăn nuôi trong nước, theo Nghị định số 101, mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN của lúa mì giảm từ 3% xuống 0% và mặt hàng ngô từ 5% xuống 2%.
Ngoài ra, để góp phần hạ giá thép trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, qua rà soát các Biểu thuế nhập khẩu MFN và hiện trạng phát triển của ngành thép hiện nay, tại Nghị định số 101, Chính phủ điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số sản phẩm thép xây dựng, thép tấm với mức giảm thuế suất từ 5% đến 10%.
Bên cạnh đó, Nghị định số 101 cũng sửa đổi thuế suất thuế xuất khẩu và thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng để bảo vệ, thúc đẩy khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước, hạn chế việc xuất khẩu tài nguyên thô, chưa qua chế biến và góp phần đơn giản biểu thuế, hạn chế gian lận thương mại.
Tuy nhiên, để hạn chế các tác động đối các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cho doanh nghiệp thời gian hợp lý điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh và xử lý hàng tồn kho, việc điều chỉnh được thực hiện theo lộ trình.
Cụ thể, đối với các mặt hàng đá và sản phẩm làm từ đá được thực hiện theo lộ trình 3 giai đoạn theo 3 năm, từ năm 2022-2024 và mức tăng thuế suất của mỗi lần điều chỉnh không quá 5%.
Trước đó, tại cuộc họp tổng kết công tác điều hành giá và kiểm soát lạm phát vừa qua, Thứ trưởng Bộ Tài chính Tạ Anh Tuấn đánh giá, mặt bằng giá cả thị trường trong 10 tháng qua tăng/giảm đan xen, một số mặt hàng có mức tăng cao do chịu tác động từ các yếu tố cung cầu trong nước và thế giới.
“Áp lực lạm phát trong năm 2022 là rất lớn, nhất là khi khủng hoảng năng lượng có thể trở nên trầm trọng, xu hướng đầu cơ, tích trữ các mặt hàng chiến lược của một số nước lớn sẽ tác động toàn diện đến kinh tế thế giới và trong nước”, Thứ trưởng Bộ Tài chính nhìn nhận.
Trước bối cảnh giá của một số mặt hàng như sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng mạnh, Bộ Tài chính cho rằng, phải rà soát mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với các mặt hàng này để có sự điều chỉnh phù hợp. Qua đó, cùng với các giải pháp chính sách khác góp phần kịp thời giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, tiêu dùng trong nước.
Nghị định số 101/2021/NĐ-CP sẽ có hiệu lực từ ngày 30/12/2021.